Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2025

Kỹ thuật Burnout - Donut - Drift

Kỹ thuật Burnout - Donut  - Drift trong môn nghệ thuật kiểm soát mất thăng bằng !

#Burnout là một cách truyền thống được sử dụng để hâm nóng lốp xe trước những cuộc đua. 

Hâm nóng lốp giúp cho lớp cao su trở nên mềm hơn và làm sạch lớp đất cát bám vào lốp giúp xe bám đường hơn. 

Burnout diễn ra khi sức mạnh động cơ thắng được lực ma sát của lốp với mặt đường và hệ thống phanh đủ mạnh để giữ chiếc xe không chuyển động về phía trước. 

Khi quá trình Burnout diễn ra, sẽ có sự cọ sát mạnh mẽ giữa lốp và mặt đường tạo nên sự nóng chảy của cao su, tạo khói. 

Cách Burnout cho từng loại xe: 

A. XE SỐ TỰ ĐỘNG, CẦU TRƯỚC

1. Kéo phanh tay

2. Chân trái giữ phanh chân, chân phải đạp ga đưa vòng quay động cơ lên khoảng 4.000 vòng/phút 

3. Chân trái nhả nhanh bàn đạp phanh, bánh trước quay tít 

4. Kiểm soát vòng quay động cơ 

5. Giảm ga, nhả phanh tay để kết thúc.

B. XE SỐ TỰ ĐỘNG, CẦU SAU 

1. Chân trái đạp phanh

2. Vào số 

3. Chân trái giữ phanh chân, chân phải đạp ga 

4. Tăng ga và giảm dần lực phanh tới thời điểm lốp quay tít thì giữ yên chân phanh và chân ga để Burnout 

5. Giảm ga để kết thúc. 

C. XE SỐ SÀN, CẦU TRƯỚC 

1. Kéo phanh tay

2. Vào số 1 và giữ chân côn (ngắt ly hợp) 

3. Đạp ga lên vòng quay 4.000 vòng/phút 

4. Nhả côn và giữ chân ga, bánh trước quay tít 

5. Kiểm soát chân ga tùy theo mức độ Burnout tuy nhiên không nên để vòng quay động cơ chạm vào vùng đỏ 

6. Giảm ga, nhả phanh tay để kết thúc. 

D. XE SỐ SÀN, CẦU SAU 

1. Cài số 1 và giữ chân côn (ngắt ly hợp)

2. Đạp chân ga đưa vòng quay động cơ lên khoảng 4.000 vòng/phút 

3. Chuyển nhanh chân côn sang chân phanh trong khi chân phải giữ đều ga 

4. Thêm ga, giảm phanh chân tới thời điểm bánh sau quay tít (thắng được lực phanh và lực ma sát mặt đường) nhưng vẫn giữ được trạng thái xe đứng yên 

5. Giảm ga để kết thúc. 

NHỮNG CẢNH BÁO KHI BURNOUT: 

- Với xe số tự động, không được tăng vòng tua động cơ cao rồi vào số đột ngột, bởi như vậy bạn có thể gây hư hại nặng tới hộp số.

- Bạn có thể làm gẫy trục xe khi Burnout - Bạn có thể phá hủy ly hợp nếu Burnout không đúng cách - Bạn có thể phá hủy động cơ nếu hoạt động liên tục ở vòng quay cực đại. 

- Trong mỗi cuộc đua xe chuyên nghiệp thường có một khu vực dành riêng cho các xe Burnout “Burnout box”, khu vực này cần được tưới nước giúp giảm ma sát giữa lốp và mặt đường giúp các xe dễ dàng Burnout trước mỗi trận so tài. 

#Donut trong kỹ thuật biểu diễn xe hơi là thao tác điều khiển xoay vòng tròn 360 độ. 

Kỹ thuật để Donut khá đơn giản: xoay vô lăng về 1 bên, hết lái hoặc gần hết lái 

1- Đối với xe số sàn thì cài số 1 cùng đạp hết côn và ga, sau đó thả chân ga ra là xe xoay  vòng tròn 360 độ. 

2- Đối với xe số tự động thì cùng đạp thắng và ga, sau đó thả chân thắng ra là xe sẽ xoay vòng tròn 360 độ. 

#Drift là do người lái cố tình để cho lốp sau mất độ bám đường nhưng vẫn kiểm soát được hướng đi của xe.

Một xe được xem là drift nếu xe chuyển động tịnh tiến theo một phương nhưng bánh lái lại có hướng ngược lại và người lái điều khiển hướng chuyển động của xe qua chân ga – lái chỉ có tác dụng thứ yếu. 

Có nhiều kiểu drift: dùng sức mạnh động cơ thắng độ bám mặt đường; phanh kết hợp dồn số, lên ga; giật phanh tay trước cua; khóa số, tăng tốc đột ngột; vẩy lái, hết ga; ôm cua búng côn trong khi giữ ga cao.

Drift thực chất là trượt xe do bánh xe không thể bám vào mặt đường vì vậy mới có khá nhiều kiểu drift khác nhau nhưng trên thực tế, chỉ có hai giải pháp drift và tùy thuộc vào từng loại xe cũng như kỹ thuật của tài xế.

Giật phanh tay là cách dễ nhất để drift. Chạy với tốc độ trên 60km/h (tùy điều kiện mặt đường) trước khi đến đỉnh cua giật nhẹ lái về hướng cua (khoảng 15 độ nếu mặt đường có độ bám kém) đồng thời đạp và giữ nguyên côn cùng lúc kéo phanh tay. Khi xe bắt đầu văng, nhả phanh tay, đánh ngược lái với hướng xe cua, kéo số về 2, nhả chân côn và lên ga để duy trì tình trạng trượt qua cua. Sẽ có một cú drift tròn trịa nếu người lái cảm nhận được quãng thời gian cần thiết để giữ phanh tay - kéo nhả nhanh xe sẽ quăng ngang ít, giữ lâu sẽ quay ngang nhiều. Kiểu drift dùng phanh tay thường dùng ở tốc độ thấp, cua hẹp và ở tốc độ cao để bắt đầu một cú drift dài.

Sử dụng phanh xe đúng mức sẽ giúp kiểm soát nhiều tình huống nguy hiểm trên đường đi. Tuy nhiên, để sở hữu kỹ thuật drift xe ô tô nhuần nhuyễn thì nguyên tắc quan trọng nhất không phải là phanh.

Chuyên nghiệp nhất là vẩy lái, về số và lên ga cao. Trước hết cần chạy đà từ 60 đến 90km/h - đa số các xe tốt nhất chạy đà lên số 3, tùy vào điều kiện mặt đường (đường nhựa, đường đất…vv, có độ bám khác nhau) và góc cua rộng hẹp; trước cua bám rộng ra ngoài cua và giật lái đột ngột vào cua. Lúc này đuôi xe quăng ngang nhưng bánh lái vẫn hướng theo góc cua, ngay lập tức đảo lái theo hướng ngược lại, dồn số về 2 và tăng ga để lốp sau mất độ bám. Chân ga lúc này cần đặc biệt nhạy cảm, ga lớn quá xe sẽ quay tròn tại chỗ; ga nhỏ quá lốp sẽ có độ bám và xe sẽ đi thẳng. Giải pháp tốt nhất là vẩy ga liên tục để tìm tốc độ quay hợp lý - ga lớn cho góc xe quay ngang rộng, ga nhỏ cho góc hẹp hơn.

Lưu ý: việc xe quăng ngang chỉ là bước đầu tiên của drift.

Một cú drift “tươm tất” thì người lái phải duy trì được tình trạng trượt ngang của xe qua cua.

Do vậy, kiểu trượt ngang dùng phanh tay trên các xe dẫn động cầu trước hay xe AWD thường không được xem là drift. 

Phân loại kỹ thuật Drift 

1- Kỹ thuật drift dựa vào côn

Clutch-kick drift – Khi gần đến khúc cua, người lái vẫn đạp côn, đạp ga để tăng số vòng động cơ và về số. Sau đó nhà côn, toàn bộ sức mạnh động cơ đột ngột dồn về cầu sau khiến đuôi xe bị trượt. Đây là kỹ thuật drift cơ bản

Shift-lock drift –  Khi gần đến khúc cua, người lái về số, nhả gà để giảm số vòng quay và giảm tốc độ động cơ. Sau đó nhả côn khiến bánh sau bị giảm tốc đột ngột và trượt đi.

2- Kỹ thuật drift dựa vào phanh

E-brake drift – Khi vào cua, kéo phanh khẩn cấp để khóa cứng bánh sau và đánh vô lăng đưa chiếc xe vào cua, phần thân sau xe sẽ trượt và xe bắt đầu drift. Đây là kỹ thuật drift cơ bản.

Braking drift – Khi vào cua, đạp phanh để trọng lượng xe dồn về phía trước khiến phần thân sau xe bị hẫng và trượt bánh. Tiếp tục kết hợp sử dụng phanh và cần số để drift mà không cần phanh chết bánh sau.

Long-slide drift – Khi xe cách khúc cua ở một đoạn khá xa và di chuyển ở tốc độ 160 km/h, kéo phanh khẩn cấp để xe bắt đầu drift một đoạn dài cho đến khúc cua.

3- Các kỹ thuật drift khác

Power-over drift – Tăng tốc xe khi vào cua nhằm tạo đà để xe trượt bánh khi ra khỏi cua. Kỹ thuật này đòi hỏi xe phải có động cơ thật mạnh mẽ.

Feint drift – Khi gần đến khúc cua, điều khiển xe ra làn ngoài nhằm dồn trọng lượng xe về hai bánh ngoài, sau đó nhanh chóng đánh tay lái đưa xe vào cua. Bất ngờ bị dồn trọng lượng sẽ khiến đuôi xe bị trượt và xe bắt đầu drift. 

Dynamic drift (Kansei drift) – Vào cua ở tốc độ cao và đột ngột nhả chân ga sẽ khiến trọng lượng xe dồn về phía trước, bánh sau bị trượt sẽ khiến xe drift.

Dirt-drop drift – Đánh tay lái cho đuôi xe trệch khỏi đường đua ra khu vực có cát. Kỹ thuật này giúp xe dễ dàng drift, duy trì tốc độ nhằm drift qua nhiều khúc cua.

Làm sao để làm chủ drift 

Khi xe ô tô của bạn bắt đầu trượt thì không nên nhấn bàn đạp phanh.

Khi xe ô tô sử dụng hệ thống dẫn động cầu sau, tài xế nên nhả ga và xoay bánh xe theo hướng trượt.

Khi xe ô tô sử dụng hệ thống dẫn động cầu trước, người lái nên kéo cần gạt lên. 

Thông thường, các mẫu xe dẫn động cầu trước thường cung cấp lực kéo tốt hơn so với các xe cầu sau, giúp xe bám đường tốt hơn trong các điều kiện mưa hay đường dễ trơn trượt.

Trong trường hợp xe đã bị trượt, bạn nên nhẹ nhàng thả ga, ngay lập tức xoay bánh xe về vị trí phía trước như ban đầu cho đến khi đầu xe di chuyển thẳng tắp hoặc để tiến hành một cú drift mới.

Các cuộc thi drift 

Giống như bất cứ cuộc đua thi nào, thi drift cũng đòi hỏi những yêu cầu an toàn nhất định. Điểm lưu ý là các xe tham gia drift phải được trang bị ghế ngồi kiểu xe đua với dây an toàn 5 điểm, đồng thời, lái xe nhất thiết phải đội mũ bảo hiểm. Đường chạy drift cũng được thiết kế chuyên dụng, thường ngắn hơn các loại đường đua khác. Chúng phải có ít nhất 5 tới 6 khúc cua và thông thường có hình chữ U. 

Trong thi drift, người ta không căn cứ vào thời gian hoàn thành để đánh giá bài thi. Có hai hình thức chạy, solo – thường thực hiện khi bắt đầu cuộc thi và thi 2 người 1 lần (người trước người sau) – diễn ra khi vòng đấu loại solo đã kết thúc và chỉ còn lượng nhỏ tay lái. 

Các tiêu chí để đánh giá bài thi drift bao gồm:

Driving line (đường chạy qua mỗi cua): Yêu cầu đặt ra là đường đi của xe drift phải khít. Muốn làm được điều này, mui xe phải tiến sát với phần trong của cua. Để đạt điểm cao, lái xe cần trình diễn khả năng giữ đuôi xe sát với phần ngoài cua.

Speed (tốc độ): Trong thi drift xe, qua một góc cua, chạy nhanh hơn cũng được đánh giá cao hơn. Giám khảo thường thích những pha drift ngay từ lúc bắt đầu vào cua, ở trong cua và ra khỏi cua một cách nhanh chóng.

Drift angle (góc drift): Góc drift  là góc của xe khi vào cua so với hướng của đường. Giám khảo cũng sẽ lưu tâm đến thời gian góc drift được duy trì. Nhất thiết những góc drift lý tưởng phải làm cho xe trở nên vuông góc với hướng của mặt đường.

Performance/execution (điểm trình diễn): Trong thi drift, giám khảo cho điểm trình diễn dựa trên những yếu tố như phong cách lái và lượng khói tạo ra từ bánh xe. Các lái xe có thể tranh thủ lấy điểm trình diễn bằng cách mở cửa hoặc thò tay hoặc đầu ra ngoài cửa sổ khi drift, nhưng thông thường, quy định của các cuộc thi là phải cho kính lên và đóng chặt cửa.

Tư thế ngồi khi đua xe ôtô

 Tư thế ngồi khi đua xe ôtô đảm bảo 3 mục tiêu: quan sát tốt, cảm nhận tốt và xử lý tốt ở tốc độ cao.

Vì vậy, cần chỉnh ghế, chỉnh vô lăng đảm bảo 3 yêu cầu sau.

1- Đối với các xe đua không quá thấp thì các tay đua sẽ ngồi thẳng lưng.

Ngồi thẳng lưng sẽ giúp quan sát tốt hơn. 

Khi ngồi thằng lưng sẽ giúp cảm nhận chuyển động tốt hơn, đặc biệt là khi ở những địa hình trơn trượt. 

Chạy nhanh ngồi thấp, chạy chậm ngồi cao (đảm bảo việc quan sát được xung quanh).

2- Có 2 cách để xác định tư thế cầm vô lăng đúng. 

Cách 1: Duỗi thẳng cẳng tay rồi đặt tay lên vô lăng sao cho cườm bàn tay chạm đỉnh vô lăng. 

Cách 2: Cầm vô lằng góc 9h bằng tay trái và 3h bằng tay phải, khớp khuỷu tay tạo ra góc 45 độ. 

3- Cẳng chân và khớp gối không nên duỗi hết 180 độ khi đạp hết phanh và côn. 

Điều này giúp kiểm soát tốt khi khẩn cấp và giảm rủi ro chấn thương khi va chạm.

Sử dụng hộp số sàn

 Khác với xe ôtô số tự động, xe số sàn là loại xe ôtô có cần số và tài xế phải trực tiếp điều khiển bằng tay và chân côn. Xe số sàn còn được gọi là xe số tay (Manual Transmission) có những bộ phận khác biệt so với xe hơi tự động như sau:

+) Bộ phận côn xe cho phép đóng ngắt hệ thống truyền động. Chính bộ phận này giúp cho tài xế dễ dàng thay đổi số của động cơ một cách chủ động. Bộ phận này còn được gọi là bộ ly hợp và việc sử dụng thuần thục côn xe sẽ giúp bạn thay đổi tốc độ xe một cách nhẹ nhàng. 

+) Hộp số xe ô tô là một bộ phận trung gian nằm giữa động cơ và bánh xe. Hộp số giữ vai trò thay đổi tỉ số truyền động giữa động cơ và bánh xe. Quy tắc cơ bản của hộp số là số thấp thì sức kéo của xe mạnh và tốc độ chậm. Với số cao thì xe sẽ chạy với tốc độ nhanh nhưng sức kéo của xe thấp. 

+) Bộ phận tay điều chỉnh số dùng để điều chỉnh số của xe. Mỗi lần thay đổi số xe, bạn cần phải đạp hết côn xe và dùng tay để điều chỉnh cần số cho phù hợp với nhu cầu. 

+) Cần tay điều chỉnh xe số sàn 

Học lái xe ô tô số sàn trong 16 bước

Bước 1-  Hiểu về nguyên tắc hoạt động của bộ ly hợp (côn) khi lái xe ôtô số sàn

Bước 2-  Điều chỉnh ghế ngồi phù hợp khi lái xe ôtô số sàn, chỉnh gương chiếu hậu trong ngoài để tầm quan sát được tốt nhất.

Bước 3-  Thắt dây an toàn khi lái xe ôtô.

Bước 4-  Đạp hết chân côn (bàn đạp ly hợp)

Bước 5-  Kiểm tra chắc chắn cần số đang ở vị trí N (Neutral) và phanh tay đang được kéo phanh khi lái xe ôtô số sàn trước khi khởi động xe.

Bước 6-  Khởi động xe

Bước 7-  Sau khi khởi động xe, có thể bỏ chân khỏi bàn đạp ly hợp.

Bước 8-  Nhả phanh tay. 

Bước 9-  Chân trái đạp bàn đạp ly hợp hết hành trình, tay phải di chuyển cần số sang số 1.

Bước 10- Chân trái từ từ nhả chân côn cho đến khi xe di chuyển

Bước 11- Sau đó dùng chân phải mớm nhẹ bàn đạp ga để xe di chuyển theo ý muốn.

Bước 12- Sau khi xe di chuyển, vòng tua máy đạt khoảng 2.500 đến 3.000 vòng/phút, tiến hành đạp côn hết hành trình rồi sang số 2

Bước 13- Từ từ nhả chân côn và ấn nhẹ bàn đạp ga

Bước 14- Tiếp tục đạp ga và bỏ hoàn toàn chân côn

Bước 15- Khi muốn dừng lại, di chuyển chân phải từ bàn đạp ga sang bàn đạp phanh và đạp cho đến khi xe giảm tốc độ

Bước 16- Một khi đã làm chủ và thuần thục cách sử dụng số sàn, thì người lái có thể kiểm soát chiếc xe theo phong cách của từng tài xế.

Lái xe số sàn sao cho đúng cách

Khác với số tự động, việc lái xe số sàn cần nhiều thao tác thuần thục, nhưng các kinh nghiệm lái xe cùng những hướng dẫn lái xe số sàn cho người mới học đúng cách thì không phải ai cũng biết, vì vậy rất dễ dẫn đến sai thao tác.

- Sai lầm thứ nhất (phổ biến nhất) là khi vào cua, tài xế trả về số N (số mo, số 0) quá lâu. Khi xe vào cua, không nên ngắt li hợp mà chỉ nên nhả chân ga để giảm tốc độ. Khi vào cua mà bạn để cho xe chạy bằng quán tính bằng cách ngắt li hợp hay về số N thì bánh xe sẽ ít bám đường hơn là khi bạn nhấn ga nhẹ và giữ cho xe chạy chậm.

** Hãy nhớ "Bỏ chân ga thì rà chân phanh" - Đây là thao tác thường xuyên khi lái xe. Chân phải khi không dùng để nhấn ga phải ngay lập tức chuyển sang để hờ lên bàn đạp phanh, sẵn sàng xử lý tính huống tiếp theo. 

- Sai lầm thứ hai là về số mo hay ngắt li hợp khi xuống đèo dốc để tiết kiệm nhiên liệu nhưng thực tế lại mất an toàn. Khi xe xuống đèo dốc mà không có lực hãm hỗ trợ từ hộp số sẽ khiến hệ thống phanh phải làm việc liên tục. Khi hệ thống phanh quá nhiệt thì phanh sẽ mất tác dụng và sẽ xảy ra tai nạn.

** Hãy nhớ "Lên số nào, xuống số đó" - khi di chuyển ở nơi đèo dốc thì nên nhớ lên số nào thì xuống số đó. Tuy nhiên, câu nói trên còn hàm ý nhắc lái xe khi thả dốc dài thì không được đi số cao hoặc về mo.

- Sai lầm thứ ba (kể cả các giáo viên dạy lái) là để tránh xe bị chết máy khi phanh, cần đạp chân côn (ngắt ly hợp) trước khi đạp phanh. Đây là thao tác rất nguy hiểm khi mất đi khả năng xử lý tình huống bất ngờ. Thật ra, thao tác cần thực hiện ngược hẳn: đầu tiên là chân phanh, và khi xe gần dừng hẳn mới đạp côn, cắt ly hợp.

** Hãy nhớ "Đi chậm côn trước phanh sau, đi nhanh phanh trước côn sau an toàn"

- Sai lầm thứ tư là không sử dụng số thấp khi vượt. Khi lái xe số sàn trong thành phố thường phải chuyển số liên tục nhưng khi thời tiết xấu, số thấp là sự bảo đảm bổ sung cho an toàn. Tất nhiên, khi chuyển số xe không được lắc, giật. Thao tác chuẩn xác khi chuyển số là một trong những thước đo để đánh giá kinh nghiệm của người lái.

- Sai lầm thứ năm là thực hiện kỹ thuật “chuyển số tắt” (có nghĩa là khi chuyển từ số thấp sang số cao hơn và bỏ qua một số trung gian nào đó). Chẳng hạn như từ 3 sang thẳng số 5 để tiết kiệm nhiên liệu. Sẽ phức tạp hơn nếu cần chuyển gấp về số thấp, chẳng hạn như số 4 về số 2. Trong trường hợp này, để tránh hỏng động cơ và ly hợp, vào thời điểm nhả chân côn, cần nhấn thêm chân ga mạnh hơn so với bình thường, đây là kỹ thuật lái xe số sàn an toàn mà bạn cần nắm trước khi lái xe ra cao tốc hoặc xa lộ.

Khởi động xe ngang dốc đối với xe số sàn (MT), có thể sử dụng phanh tay để hỗ trợ trong quá trình khởi hành, cụ thể là

1) Sau khi xe đã dừng trên dốc, kéo phanh tay với mục đích là thay phanh chính để giữ xe đứng yên. 

2) Khi đó, bỏ chân phanh và đặt vào chân ga. 

3) Khi cần di chuyển từ vị trí đứng yên trên dốc, lái xe cắt côn vào số và nhả côn. Đạp mớm ga như lúc khởi động xe bình thường trên đường bằng phẳng. Lúc này phanh tay vẫn chưa nhả nên xe chắc chắn không bị trôi. 

4) Tiếp tục nhả côn từ từ đến khi thấy tay lái hoặc cần số rung lên (báo hiệu các lá côn đã bắt vào nhau) thì nhả nhẹ phanh tay, nghe ngóng nếu thấy xe không trượt thì thả nốt phanh tay, xe sẽ tự bò lên. Có thể mớm nhẹ chân ga nếu xe chưa di chuyển.

Sai lầm dẫn đến xe bị tụt dốc lúc đề pa là do quá trình nhả côn

Trong lúc nóng vội, các lái xe thường không kiểm soát được chân ga , chân côn và chân phanh dẫn đến việc bị tụt dốc lúc đề pa, để cải thiện tình trạng đó bạn cần nắm được những kỹ thuật lái xe số sàn lên xuống dốc an toàn như:  

+) Không điều khiển được chân côn, dẫn đến nhả côn quá tầm, dẫn đến chết máy.

+) Trước khi nhả côn, phải ga thốc lên tầm vòng tua máy 1.500 - 2.000 vòng/phút, nhưng trong quá trình nhả côn lại không giữ đều chân ga khiến đầu xe sẽ không ngóc lên được.

+) Khi nhả côn, đầu xe chưa ngóc lên đã cắt phanh tay, khả năng tụt dốc là 95%. Bạn vẫn chỉ có thể cứu bạn nếu nhã thêm chút côn và ga thốc lên.

+) Sau khi cắt phanh tay, không giữ nguyên chân côn, chân ga lúc bắt đầu cắt phanh tay. Khả năng tụt dốc là 98%, 2% cho bạn bình tĩnh đạp côn, phối hợp với phanh và kéo phanh tay để thực hiện lại cú đề-pa.

Tóm lại trong quá trình từ lúc bắt đầu thực hiện cú đề-pa ngoạn mục của bạn thì tay phải của bạn luôn cầm lấy cái phanh tay và hãy thật bình tĩnh. Đối với những xe ôtô máy còn ngon có thể đề-pa như sau mà không cần kéo phanh tay:

+) Đạp côn với phanh để dừng trên dốc.

+) Khi đi, bạn hơi nhả côn thật từ từ, khi thấy xe rung rung lên, chuyển chân phanh sang chân ga, ga thốc lên, đảm bảo lên dốc 100%. Cách này chỉ dùng cho thời gian đỗ xe ngắn, nếu không sẽ xảy ra tình trạng mỏi chân.


Đề-pa trên ĐƯỜNG DỐC KHI KẸT XE

Nếu dùng theo cách thông thường là sử dụng “CÔN - PHANH TAY - GA” hoặc “CÔN - PHANH CHÂN - GA” liên tục trên đường dốc khi kẹt xe sẽ khiến bạn vã mồ hôi, chân tay bạn mỏi nhừ. 

+Để đề-pa liên tục trên ĐƯỜNG DỐC KHI KẸT XE cần phải luyện thêm thật nhuần nhuyễn “CÔN - GA

+) Để có thể giữ xe đứng trên dốc chỉ bằng CÔN - GA thì ÂM MỘT ÍT hay MỘT NỮA CHÂN CÔN và MỚM GA vừa phải để xe đứng tại dốc, nếu xe có hiện tượng lùi thì THÊM CHÚT GA, nếu xe hơi nhích lên thì GIẢM CHÚT GA.

Bảng tương quan giữa các cấp số với tốc độ của xe:

Số 1: tốc độ 8 – 16 km/h

Số 2: tốc độ 16 – 32 km/h

Số 3: tốc độ 32 – 48 km/h

Số 4: tốc độ 48 – 72 km/h

Số 5: tốc độ từ 72 km/h trở lên

Số N: Không lăn bánh – 0 km/h

Số R: Lùi với tốc độ tương ứng số 1 (8 – 16 km/h)

Bảng này chỉ mang tính chất tham khảo. Bởi mỗi hộp số của từng hãng xe, thậm chí từng mẫu xe sẽ có sự phân chia tỷ lệ truyền khác nhau theo đặc điểm thế mạnh của xe.

Số 1: Đầy là số có lực dẫn động cao nhất và tốc độ thấp nhất, sử dụng khi xe bắt đầu đề pa khởi hành, xe cần leo dốc cao…

Số 2, 3: Số 2 có lực dẫn động cao thứ nhì – thấp hơn số 1 nhưng tốc độ cao hơn số 1, thường dùng sau số 1. Tương tự sốc 3 có lực dẫn động thấp hơn số 2 nhưng tốc độ cao hơn số 2. Số 2 và số 3 thường dùng khi xe chạy ở tốc độ thấp.

Số 4, 5, 6: Các số này dùng khi xe chạy với tốc độ trung bình đến cao. Khi này xe không cần lực dẫn động lớn mà cần duy trì tốc độ ổn định.

Không để chân chờ trên bàn đạp côn

Ly hợp chính là cầu nối giữa động cơ và hộp số. Chân côn có nhiệm vụ điều khiển quá trình ngắt ly hợp để xe có thể dừng mà động cơ vẫn hoạt động. 

Do vậy, việc gác chân lên bàn đạp côn có thể tạo ra lực khiến bố ly hợp không khớp với động cơ, dẫn đến trượt ly hợp. Hậu quả trượt ly hợp là công suất không được truyền tải đủ, nhiên liệu bị tiêu hao nhiều và đặc biệt là làm ly hợp bị mòn nhanh hơn. 

Nhiều xe có bàn đạp côn nhẹ nên dễ bị tác động lực. Nếu người lái thường xuyên gác chân lên chân côn sẽ ảnh hưởng nhiều đến bộ ly hợp. Việc đặt chân lên chân côn khi xe đang di chuyển là điều không cần thiết và không nên.

Không dùng côn khi xe đứng dốc

Có nhiều cách đề pa lên dốc và đứng dốc, phổ biến nhất là dùng phanh tay. Bên cạnh đó không ít người dùng cách vê côn. Với cách này, người lái sẽ đạp chân côn, sau đó mớm ga để xe không bị trượt. 

Nhưng không nên dùng cách này bởi dễ làm côn nhanh mòn vì ma sát nhiều. Nếu cần thiết thì chỉ nên áp dụng khi xe dừng ngang dốc tức thời. Với người mới học lái xe ô tô số sàn, cách khởi hành ngang dốc xe số sàn tốt nhất vẫn là dùng phanh tay.

Không nên vừa đạp phanh vừa đạp côn (để tránh cho xe chết máy) khi giảm tốc 

Lý do là khi đạp côn (ly hợp) thì phanh động cơ (sức ghì từ động cơ) sẽ không còn tác dụng, xe sẽ bị trôi và tăng quãng đường phanh. 

Thời điểm tốt nhất để đạp côn là ngay trước khi xe dừng hẳn, như vậy vẫn đảm bảo quãng đường phanh ngắn nhất mà xe không tắt máy. Nếu tình huống quá nguy hiểm, ưu tiên hàng đầu vẫn là giảm tốc độ xe nhanh nhất có thể, việc xe tắt máy hay không không còn quan trọng. 

Ít ai biết là xe số sàn cũng có thể sang số mà không cần phải sử dụng đến chân côn. Cách này chỉ sử dụng được khi xe đang lăn bánh, tức là lúc bắt đầu di chuyển để vào số 1 thì tài xế vẫn phải đạp côn để vào số 1 cho xe di chuyển.

Khi xe đang di chuyển, nhấn chân ga lên vòng tua máy khoảng 2.000-2.500 vòng/phút thì nhả ga. Ngay lúc này, đẩy cần số về N (số mo), sau đó đẩy về số 2 hoặc các số muốn sử dụng

Khi cần về số, nhấn ga lên ngưỡng 2.000 vòng/phút rồi trả cần số về số N. Sau đó, tiếp tục đạp ga cho vòng tua tăng từ khoảng 2.000 đến 2.500 vòng/phút rồi nhả ra đồng thời về số mình muốn.

Để xe chạy êm ái thì tài xế nên sử dụng các số đồng tốc. 

Ví dụ, đang đi ở tốc độ 20 km/h thì có thể vào số 3.

Tuyệt đối không nên sử dụng trong đường phố đông đúc.

Để thực hiện được kỹ thuật trên, trước hết hãy là một tài xế lái xe và vào số xe bằng chân côn một cách thuần thục. 

Tài xế mới hay còn non tay tuyệt đối không nên sử dụng kỹ thuật này vì nếu không quen có thể hại hộp số, nặng có thể vỡ bánh răng hộp số và nguy hiểm cho người ngồi trên xe cũng như người đi đường. 

Hộp số

 Hộp số là bộ phận truyền sức mạnh từ động cơ đến hệ thống dẫn động

Hộp số dùng để thay đổi tỷ số truyền nhằm thay đổi mô-men xoắn ở các bánh xe.

Trên thế giới đang có 2 loại hộp số, đó là hộp số sàn (MT) và hộp số tự động (AT).

Trong các hộp số tự động thì có 3 loại hộp số tự động là:

+) Hộp số tự động sử dụng biến mô 

+) Hộp số tự động vô cấp, trong đó lại phân ra CVT(sử dụng dây curoa) và X-CVT(sử dụng dây đai thép).

+) Hộp số tự động robot hóa, trong đó lại phân ra ly hợp đơn (SCT) và ly hợp kép (DCT).

Hộp số tự động sử dụng biến mô thông thường được bảo hành miễn phí với 100.000 km đầu, trong khi đó chi phí thay chất lỏng của một số hộp số vô cấp CVT khá đắt đỏ. 

Hộp số ly hợp kép DCT cũng khó có thể được bảo dưỡng miễn phí; ví dụ như khi mất khoảng vài trăm USD để thay chất lỏng và bộ lọc của VW DSG, khi xe mới chạy được 48.300 km.

Hộp số tự động sử dụng bộ biến mô-men thủy lực - AT

Đây là công nghệ được sử dụng nhiều nhất và lâu đời nhất của hộp số tự động. Là một trong những công nghệ bền bỉ nhất vì đã được trải nghiệm từ thời "cổ đại", thậm chí ngay từ khi thiết kế, nó đã được cấu tạo để sống cùng với thời gian. Những mẫu hộp số tiêu biểu là Tiptronic, Septronic, 7G-Tronic, 9-G Tronic, ...

Điểm mạnh đem lại sự bền bỉ cho hệ thống này là nó giúp giảm ma sát của ly hợp bằng cách truyền mô-men xoắn bằng hệ thống thủy lực. Hệ thống thủy lực ở đây là dầu hộp số, tuy nhiên lại phải thay dầu cũng như là miếng ngăn mạt sắt (nam châm) mỗi 60,000 Km (đừng tự làm nhé các bạn, nó không đơn giản như thay dầu động cơ đâu).

Một điểm mạnh nữa là hệ thống này sử dụng các bánh răng hành tinh để truyền động thay vì các bánh răng gắn trên các trục song song như trên các loại hộp số tay hay hộp số tự động robot hóa. Tiếp xúc giữa các banh răng hành tinh hạn chế ma sát vì vậy bền hơn là các bánh răng trên các trục song song.

Hộp số tự động không có li hợp để ngắt động cơ và hộp số. Thay vào đó, sử dụng một thiết bị gọi là biến mô thủy lực, hay còn gọi là hộp số sử dụng mô-men biến thiên, hay gọi phổ thông nhất là hộp số tự động truyền thống. 

Bộ biến mô gồm bánh bơm, bánh tuabin, khớp một chiều, stato và vỏ biến mô chứa tất cả các bộ phận đó. Bộ biến mô được điền đầy ATF do bơm dầu cung cấp. Động cơ quay và bánh bơm quay, và dầu bị đẩy ra từ bánh bơm thành một dòng mạnh làm quay bánh tua bin.

Bánh bơm được bố trí nằm trong vỏ bộ biến mô và nối với trục khuỷu qua đĩa dẫn động. Nhiều cánh hình cong được lắp bên trong bánh bơm. Một vòng dẫn hướng được lắp trên mép trong của các cánh để đường dẫn dòng dầu được êm.

Rất nhiều cánh được lắp lên bánh tuabin giống như trường hợp bánh bơm. Hướng cong của các cánh này ngược chiều với hướng cong của cánh của bánh bơm. Bánh tua bin được lắp trên trục sơ cấp của hộp số sao cho các cánh bên trong nó nằm đối diện với các cánh của bánh bơm với một khe hở rất nhỏ ở giữa.

Stato nằm giữa bánh bơm và bánh tua bin. Qua khớp một chiều nó được lắp trên trục stato và trục này được cố định trên vỏ hộp số. Dòng dầu trở về từ bánh tua bin vào bánh bơm theo hướng cản sự quay của bánh bơm. Do đó, stato đổi chiều của dòng dầu sao cho nó tác động lên phía sau của các cánh trên bánh bơm và bổ sung thêm lực đẩy cho bánh bơm do đó làm tăng mômen. Khớp một chiều cho phép Stato quay theo chiều quay của trục khuỷu động cơ. Tuy nhiên nếu Stato định bắt đầu quay theo chiều ngược lại thì khớp một chiều sẽ khoá stato để ngăn không cho nó quay.

Khi tốc độ của bánh bơm tăng thì lực li tâm làm cho dầu bắt đầu chảy từ tâm bánh bơm ra phía ngoài. Khi tốc độ bánh bơm tăng lên nữa thì dầu sẽ bị ép văng ra khỏi bánh bơm. Dầu va vào cánh của bánh tua bin làm cho bánh tua bin bắt đầu quay cùng chiều với bánh bơm. Dầu chảy vào trong dọc theo các cánh của bánh tua bin. Khi nó chui được vào bên trong bánh tua bin thì mặt cong trong của cánh sẽ đổi hướng dầu ngược lại về phía bánh bơm, và chu kỳ lại bắt đầu từ đầu. Việc truyền mô men được thực hiện nhờ sự tuần hoàn dầu qua bánh bơm và bánh tua bin.

Việc khuyếch đại mômen do bộ biến mô thực hiện bằng cách dẫn dầu khi nó vẫn còn năng lượng sau khi đã đi qua bánh tua bin trở về bánh bơm qua cánh của Stato. Nói cách khác, bánh bơm được quay do mô men từ động cơ mà mô men này lại được bổ sung dầu quay về từ bánh tua bin. Có thể nói rằng bánh bơm khuyếch đại mô men ban đầu để dẫn động bánh tua bin.

Mô tả chung về hoạt động của bộ biến mô khi cần số được chuyển vào “D”, "2", "L" hoặc "R".

Khi động cơ chạy không tải thì mômen do động cơ sinh ra là nhỏ nhất. Nếu gài phanh (phanh tay và/hoặc phanh chân) thì tải trên bánh tuabin rất lớn vì nó không thể quay được. Tuy nhiên, do xe bị dừng nên tỷ số truyền tốc độ của bánh tuabin so với cánh bơm bằng không trong khi tỷ số truyền mô men ở trị số lớn nhất. Do đó, bánh tua bin luôn sẵn sàng để quay với một mômen lớn hơn mô men do động cơ sinh ra.

Khi nhả các phanh thì bánh tuabin có thể quay cùng với trục sơ cấp của hộp số. Do đó, bánh tuabin quay với một mômen lớn hơn mô men do động cơ sinh ra khi đạp bàn đạp ga. Như vậy xe bắt đầu chuyển động.

Khi tốc độ xe tăng lên, thì tốc độ quay của bánh tua bin sẽ nhanh chóng tiến gần tới tốc độ quay của bánh bơm. Vì vậy, tỷ số truyền mômen nhanh chóng tiến gần tới 1.0. Khi tỷ số truyền tốc độ giữa bánh tua-bin và bánh bơm đạt tới điểm li hợp thì stato bắt đầu quay. và sự khuyếch đại mô men giảm xuống. Nói cách khác, bộ biến mô bắt đầu hoạt động như một khớp nối thuỷ lực. Do đó, tốc độ xe tăng gần như theo tỷ lệ thuận với tốc độ động cơ.

Bộ biến mô chỉ hoạt động như một khớp nối thuỷ lực. Bánh tua bin quay ở tốc độ gần đúng tốc độ của bánh bơm.

Cơ cấu li hợp khoá biến mô truyền công suất động cơ tới hộp số tự động một cách trực tiếp và cơ học. Do bộ biến mô sử dụng dòng thuỷ lực để gián tiếp truyền công suất nên có sự tổn hao công suất. Vì vậy, li hợp được lắp trong bộ biến mô để nối trực tiếp động cơ với hộp số để giảm tổn thất công suất. Khi xe đạt được một tốc độ nhất định, thì cơ cấu li hợp khoá biến mô được sử dụng để nâng cao hiệu quả sử dụng công suất và nhiên liệu. Li hợp khoá biến mô được lắp trong moayơ của bánh tuabin, phía trước bánh tuabin. Lò xo giảm chấn sẽ hấp thụ lực xoắn khi ăn khớp li hợp để ngăn không cho sinh ra va đập. Một vật liệu ma sát (cùng dạng vật liệu sử dụng trong các phanh và đĩa li hợp) được gắn lên vỏ biến mô hoặc píttông khoá của bộ biến mô để ngăn sự trượt ở thời điểm ăn khớp li hợp.

Khi li hợp khoá biến mô được kích hoạt thì nó sẽ quay cùng với bánh bơm và bánh tua-bin. Việc ăn khớp và nhả li hợp khoá biến mô được xác định từ những thay đổi về hướng của dòng thuỷ lực trong bộ biến mô khi xe đạt được một tốc độ nhất định. Khi xe chạy ở tốc độ thấp thì dầu bị nén (áp suất của bộ biến mô) sẽ chảy vào phía trước của li hợp khoá biến mô. Do đó, áp suất trên mặt trước và mặt sau của li hợp khoá biến mô trở nên cân bằng và do đó li hợp khoá biến mô được được nhả khớp. Khi xe chạy ổn định ở tốc độ trung bình hoặc cao (thường trên 60 km/h) thì dầu bị nén sẽ chảy vào phía sau của li hợp khoá biến mô. Do đó, vỏ bộ biến mô và li hợp khoá biến mô sẽ trực tiếp nối với nhau. Do đó, li hợp khoá biến và vỏ bộ biến mô sẽ quay cùng nhau.

Hộp số tự động lại cần phải có một bộ chuyển đổi momen ?

1- Nguyên lý cơ bản

Cũng giống như những chiếc xe dùng hộp số cơ, những chiếc sử dụng hộp số tự động cần phải có cách để cho động cơ vẫn quay trong khi những chiếc bánh xe và bánh răng trong hộp số chuyển động tới vị trí dừng. Những chiếc xe có hộp số cơ dùng một khớp ly hợp để tách hoàn toàn động cơ ra khỏi hộp số. Những chiếc xe có hộp số tự động dùng bộ chuyển đổi momen.

Bộ chuyển đổi momen là một loại khớp nối dầu, cho phép động cơ quay có phần độc lập với hộp số. Nếu động cơ đang ở vòng tua thấp, như khi xe đang ở chế độ không tải hoặc chuẩn bị dừng xe, lượng momen xoắn đi qua bộ chuyển đổi momen rất nhỏ, do đó, giữ cho xe đứng yên chỉ cần một áp lực nhẹ lên phanh.

Nếu bạn định dậm lên ga khi chiếc xe đang dừng thì xe sẽ lập tức chuyển động về phía trước ngay, khi đó nếu muốn xe dừng xe thì chuyển chân từ bàn đạp ga sang vị trí bàn đạp phanh. Điều này có thể giải thích như sau: khi bạn dậm lên chân ga, máy tăng tốc và bơm thêm dầu vào bộ chuyển đổi momen, làm cho nhiều momen xoắn được truyền tới 4 bánh xe hơn.

2- Cấu tạo bộ chuyển đổi momen

Bộ chuyển đổi momen có 4 phần chính như sau: Bơm, tuabin, stato, dầu hộp số.

Hộp vỏ của bộ chuyển đổi momen được gắn với một bánh đà của động cơ, nó quay theo tốc độ động cơ. Các cạnh bên cấu thành bơm của bộ chuyển đổi momen được gắn liền với hộp vỏ, do đó, chúng cũng quay theo tốc độ quay của động cơ.

Bơm bên trong bộ chuyển đổi momen là một loại bơm li tâm. Khi nó quay, dầu văng ra bên ngoài, giống như vòng quay của một máy giặt làm văng nước và quần áo hướng ra bên ngoài thành máy giặt. Khi dầu văng ra phía ngoài, chân không được tạo ra để hút nhiều dầu vào giữa.

Sau đó, dầu đi vào các lá tuabin được nối với hộp số. Tuabin làm cho hộp số quay, đây chính là yếu tố cơ bản làm cho chiếc xe của bạn chuyển động. Bạn có thể thấy trong hình bên dưới các lá tuabin được uốn cong. Điều này có nghĩa là dầu đi vào tuabin từ bên ngoài và nó phải thay đổi hướng trước khi đi ra khỏi tâm tuabin. Chính sự thay đổi hướng này đã làm cho tuabin quay.

Để thay đổi hướng chuyển động của một vật, bạn phải tác động một lực lên vật đó. Và bất kể bạn dùng cái gì để tác động một lực làm vật đó chuyển động bạn cũng sẽ cảm nhận được một lực nhưng theo chiều ngược lại. Do đó, khi tuabin làm cho dầu chuyển hướng thì ngược lại, dầu làm cho tuabin quay.

Dầu ra khỏi tuabin ở chính giữa tâm tuabin, chuyển động theo một hướng khác so với khi nó đi vào tuabin. Nếu nhìn vào mũi tên ở hình vẽ bên trên, bạn có thể thấy rằng dầu đi ra khỏi tuabin theo hướng chuyển động ngược với hướng quay của bơm (và động cơ). Nếu dầu đi đến bơm, nó sẽ làm cho động cơ quay chậm lại, gây hao phí công. Điều này lý giải vì sao bộ chuyển đổi momen cần có một stato.

Stato nằm ở chính giữa tâm của bộ chuyển đổi momen. Nhiệm vụ của nó là dẫn hướng cho dầu quay ngược trở lại từ tuabin trước khi nó chảy đến bơm một lần nữa. Việc này làm tăng hiệu suất của bộ chuyển đổi momen rất nhanh.

Stato có thiết kế các lá đặc biệt gần như làm chuyển đổi hoàn toàn hướng đi của dầu. Khớp ly hợp một chiều (bên trong stato) nối stato với một trục cố định trong hộp số (hướng mà khớp ly hợp làm cho stato quay được chú thích trong hình vẽ trên đây). Do bố trí như vậy, stato không thể quay khi có dầu - nó chỉ có thể quay theo chiều ngược lại, buộc dầu phải thay đổi hướng khi nó chạm vào các lá stato. 

Khi chiếc xe bắt đầu chuyển động, sẽ xảy ra một số vấn đề nhỏ. Tại một thời điểm, khoảng 40 dặm/h (64 km/h), lúc này, cả bơm và tuabin đều quay với một vận tốc gần bằng nhau (bơm luôn quay nhanh hơn một chút). Và cũng tại thời điểm này, dầu quay trở lại từ tuabin, đi vào bơm, chuyển động cùng chiều với bơm, do đó, không cần đến stato.

Mặc dù tuabin làm thay đổi hướng chuyển động của dầu và làm cho nó văng ra phía sau, dầu vẫn dừng chuyển động theo hướng tuabin đang quay vì tuabin đang quay theo một hướng nhanh hơn dầu được bơm theo một hướng khác. Nếu bạn đang đứng sau một chiếc xe đang chuyển động với tốc độ 60 km:h, và bạn ném một quả bóng về đằng sau của chiếc xe đó với tốc độ 40 km/h quả bóng vẫn sẽ chuyển động về phía trước với tốc độ 20 km/h. Điều này tương tự những gì diễn ra trong tuabin: Dầu bị văng ra phía sau theo một hướng, nhưng không nhanh bằng khi nó bắt đầu chuyển động theo chiều ngược lại.

Với các mức tốc độ như vậy, dầu sẽ đập vào các phần sau của các lá stato, làm cho stato quay tự do trên khớp ly hợp một chiều của nó, do đó, nó không gây cản trở cho dầu khi đi qua nó.

3- Ưu điểm và nhược điểm

Bên cạnh nhiệm vụ quan trọng là làm cho chiếc xe dừng hẳn lại mà không chết máy, bộ chuyển đổi momen tạo ra nhiều momen xoắn hơn cho chiếc xe trong những trường hợp cần dừng xe đột ngột (có tác dụng như phanh hãm). Các bộ chuyển đổi momen hiện đại có khả năng tăng momen xoắn cho động cơ gấp 2 hoặc 3 lần. Hiệu ứng này chỉ xảy ra khi động cơ quay nhanh hơn rất nhiều so với hộp số.

Ở tốc độ cao, lúc này hộp số và động cơ chuyển động với một vận tốc gần bằng nhau. Tuy nhiên, về mặt lý tưởng, hộp số cần chuyển động với tốc độ chính xác bằng tốc độ của động cơ vì vận tốc khác nhau sẽ gây hao phí công. Đây là một phần nguyên nhân vì sao những chiếc ô tô dùng hộp số tự động tiêu thụ nhiều nhiên liệu hơn những chiếc xe sử dụng hộp số cơ. 

Hộp số tự động biến thiên liên tục - CVT

Kiểu truyền động này được gọi là CVT (Continuously Variable Transmission) đem đến sự êm ái trong quá trình chuyển số (đơn giản vì đâu còn số nữa mà chuyển).

Xét về cảm giác lái, loại hộp số này nếu không quen sẽ cảm thấy rất lạ bởi gia tốc xe thay đổi rất đều, không hề có hiện tượng giật cục. 

Ở những thế hệ gần đây, các hãng xe cho thêm chức năng mô phỏng các cấp số ở chế độ Thể Thao/Số tay. Ở chế độ mô phỏng này, việc chuyển số (thực ra là số ảo) diễn ra rất nhanh tạo cảm giác giật như khi chuyển số thật mà không tăng dần như ở chế độ "biến thiên liên tục".

Hiện nay hộp số vô cấp CVT đang được đánh giá cao nhờ không có cấp số nên khi vận hành sẽ rất êm ái.

Hộp số vô cấp CVT không có các cặp bánh răng để tạo tỷ số truyền.

Điều này có nghĩa là nó không có sự ăn khớp giữa các bánh răng. Loại CVT thông thường nhất hoạt động trên một hệ thống puli (ròng rọc) và dây đai truyền cho phép một sự thay đổi vô cấp và liên tục giữa giới hạn thấp nhất và cao nhất mà không có sự tách biệt riêng rẽ các vị trí số. 

Hộp số vô cấp Xtronic CVT là hộp số vô cấp CVT được thiết kế với đai thép (thay thế dây dai cao su) với khả năng chịu lực và độ ăn mòn gần như hoàn hảo.Cấu tạo hộp số vô cấp CVT bao gồm: 

Một vành đai ổ đĩa nặng (hoặc chuỗi) chạy trên một hệ thống ròng rọc có rãnh với thiết bị truyền động thủy lực, có tỷ lệ hiệu quả đa dạng (XCVT hoặc Xtronic CVT là hộp số vô cấp CVT nhưng sử dụng dây đai thép). 

Hơn 10% các loại xe mới với hộp số tự động sở hữu hộp số vô cấp CVT, tỷ lệ này đang tăng trưởng mỗi năm theo từng mẫu xe. 

Bên cạnh đó, chỉ số tiết kiệm nhiên liệu của hộp số CVT ngang ngửa với hộp số tự động AT tám và chín cấp; tuy nhiên chi phí sản xuất ít hơn là lý do tại sao Nissan và CEO (Renault-Nissan) Carlos Ghosn gắn bó lâu dài với mục tiêu này.

Tuy nhiên đây không phải là một mục tiêu đơn giản. Điển hình như Chrysler và Ford đã từ bỏ mục tiêu này, sau khi cố gắng ứng dụng hộp số vô cấp CVT trên nhiều mẫu xe của hãng.

Thêm vào đó, các hãng lo ngại đôi chút về chất lượng và nhược điểm của hộp số vô cấp CVT nếu không khéo sẽ làm tăng mức tiêu hao nhiên liệu thực tế.

Gần đây nhất, Consumer Reports đã chỉ ra một số vấn đề với hệ thống truyền lực JATCO trong Altima.

Một số hãng đang cố gắng cải thiện cảm giác kết nối cho người lái xe.

Gần đây hộp số vô cấp CVT trong một số mẫu xe mới của Honda, Subaru, Toyota và đặc biệt là Nissan sở hữu tỷ lệ đặc biệt khi tăng tốc và vòng quay thay đổi; tỷ lệ này có thể sẽ tác động đến hiệu suất giúp mang lại cảm giác lái tự nhiên.

Nhược điểm của hộp số vô cấp CVT thường không liên quan đến hiệu suất mà là do tiếng ồn. Đó là lý do tại sao một số hộp số vô cấp CVT giảm hiệu suất để giảm tiếng ồn, đặc biệt là hệ thống truyền lực của Honda Accord.

Khi bạn đang đi trên đường núi, đường trường, hoặc thậm chí là trên đường đua, bạn không có sự thay thế nào cho hộp số này cũng như không có ratio chính xác để sử dụng cố định.

Với chiếc Subaru WRX 2015, bạn có thể tùy chọn ratio cấp tám trong chế độ chuyên dụng; trong khi Nissan Juke cũng có tính năng tương tự; thậm chí chiếc Toyota Corolla S 2014 còn được trang bị đến bảy cấp thể thao.

Hộp số vô cấp CVT có hiệu suất cao (hoặc tiết kiệm nhiên liệu); tuy nhiên tiếng ồn và độ rung là nhược điểm của hộp số vô cấp CVT đồng thời mang lại cảm giác chậm chạp hoặc không chắc chắn, vì vậy các hãng trang bị hộp số vô cấp CVT phải thiết kế thêm chế độ lái thể thao (Sport Driver) thậm chí là chế độ tăng tức thời (Teana) giúp cải thiện khả năng tăng tốc nhanh. 

Để giảm độ rung đối với xe khi trang bị hộp số vô cấp CVT thì các hãng xe phải gia cường độ cứng của thân vỏ xe và cải thiện hệ thống treo từ phụ thuộc thành độc lập, thậm chí là độc lập đa liên kết.

Mike O’Brien, phó chủ tịch kế hoạch sản phẩm Hyundai Motor Mỹ cho biết: 

Hộp số tự động vô cấp XCVT phải chịu mất mát năng lượng ma sát kéo vành đai thép của hộp số xung quanh puli của nó để tìm thấy phạm vi hoạt động tối ưu (tỉ lệ truyền tốt nhất ). 

Vì vậy, sẽ làm suy giảm hiệu suất và khả năng tiết kiệm nhiên liệu.

Hộp số tự động sử dụng công nghệ gọi nôm na là robot hóa 

Đó không phải là một hộp số tự động thật sự nếu xét về mặt nguyên lý hoạt động, hãy tưởng tượng 1 con robot thay thế chân của bạn để đạp/nhả ly hợp và tay của bạn để gạt cần chuyển số. 

Có thể coi nó y như là 1 hộp số tay được thêm vào 1 bộ truyền động để tự động hóa ly hợp và cần chuyển số. Ta có thể coi độ bền gần như là tương đương với hộp số tay, nếu có thì lỗi chỉ có thể đến từ bộ truyền động. 

Có 2 loại hộp số tự động robot hóa:

- Loại ly hợp đơn : Loại hộp số này vẫn mang đặc tính của hộp số tay, có nghĩa là vẫn có quy trình ngắt và nối hệ thống truyền lực trong quá trình chuyển số, hậu quả là xe của bạn vẫn sẽ bị giật cục khi chuyển số, chỉ khác là bị giật ít hay nhiều, tùy vào độ tinh chỉnh của từng hãng xe. Các công nghệ cũ như BMP của Peugeot hay ASG của Volkswagen nổi tiếng là chuyển số chậm, thậm chí là còn "do dự" khi chuyển số.

- Loại ly hợp kép : Không còn hiện tượng giật cục ở loại hộp số này nữa bởi hệ thống được trang bị 2 ly hơp : Trong khi 1 ly hợp làm việc (ly hợp tiếp xúc với trục quay của động cơ) thì bộ điều khiển đã tính toán để gài sẵn số tiếp theo ở ly hợp kia. Quá trình chuyển số được rút ngắn chỉ còn công đoạn tách ly hợp 1 và hợp ly hợp 2 vào trục quay của động cơ, tinh giản công đoạn hoán đổi vị trí các bánh răng để thay đổi tỉ lệ truyền lực, vì vậy sẽ nhanh hơn nhiều. 

Hãy tưởng tượng 1 cách đơn giản là hộp số ly hợp kép cho phép bạn chỉ phải dùng chân đạp/nhả ly hợp mà không phải sờ đến cần số, sẽ nhanh hơn rất nhiều phải không các bạn ? 

Các hộp số ly hợp kép tiêu biểu là DSG, EDC, DKG và Powershift. Vấn đề ở đây là kiểu hộp số này rất nặng (khối lượng). Từ chung để chỉ loại hộp số này là DCT (Dual Clutch Transmission).

Giống như hộp số vô cấp CVT, hộp số ly hợp kép DCT mang lại hiệu suất cao hơn cũng như tiết kiệm nhiên liệu hơn so với hộp số tự động thông thường, mang đến sự linh hoạt và cảm giác thích thú hơn hộp số tự động thông thường nhưng hộp số ly hợp kép DCT không hoạt động tốt lắm ở tốc độ thấp, vì vậy hộp số ly hợp kép DCT thường được trang bị cho loại xe thể thao hơn là xe gia đình.

Hiệu chuẩn, phần mềm và điều chỉnh ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của loại hộp số tự động này. 

Bên cạnh đó, có thể hộp số này rất phù hợp với nhiều loại xe ôtô sử dụng cá nhân, tuy nhiên lại không thích hợp với nhiều loại xe như xe bán tải, xe khách, xe tải ...

Hộp số sử dụng bộ ly hợp (hay còn gọi là bộ côn) để tự động vào số

Ly hợp là một cơ cấu được sử dụng trong một thiết bị để nối và tách hai trục quay với nhau. Trong các thiết bị này, một trong hai trục thường được một động cơ hay puly dẫn động còn trục kia lại dẫn động thiết bị khác. 

Hộp số ly hợp kép DCT là hộp số tự động trong đó một ly hợp đảm nhiệm việc sang số lẻ (1, 3 và 5). Ly hợp còn lại đảm nhiệm sang số chẵn (2, 4 và 6).

Ưu điểm của phương pháp này là động cơ luôn luôn nối với hộp số, không bị ngắt quãng. Đồng thời, việc gài các số truyền thực hiện một cách tự động tuỳ thuộc vào chế độ hoạt động của động cơ và sức cản của mặt đường (nếu người lái chọn chế độ tự động hoàn toàn). Vì vậy nó luôn đảm bảo được lực kéo phù hợp với sức cản chuyển động, bảo đảm được chất lượng động lực học và tính kinh tế nhiên liệu của ô tô.  

Một vài hộp số tự động thông dụng

Ford Powershift

Có thể coi đây là hộp số DSG (Volkswagen) của hãng Ford, hoạt động trên nguyên lý robot hóa sử dụng ly hợp kép. Điểm mạnh là tiết kiệm nhiên liệu và đem lại sự êm ái cho người dùng. Đứng đằng sau tên thương mại Powershift là công nghệ của hãng Getrag, một trong những nhà cung cấp hộp số lớn nhất thế giới.

Ford Durashift

Hộp số tự động robot hóa sử dụng ly hợp đơn.

BMW SMG (Sequential Manual Gearbox)

Tuy chỉ là hộp số tự động robot hóa ly hợp đơn, độ êm cũng như tốc độ chuyển số của nó rất ấn tượng. Được sử dụng trên các dòng xe M3, M5 và M6.

Mercedes Autotronic

Hộp số tự động biến thiên liên tục (CVT), cùng công nghệ với các hộp số sử dụng trên các dòng xe Nhật (điển hình là Toyota) hay hộp số Multitronic của Audi.

Mercedes 7G-Tronic / 9G-Tronic

Hộp số sử dụng công nghệ truyền thống sử dụng bộ biến mô-men thủy lực.

Mercedes 7G-DCT

Hộp số robot hóa ly hợp kép.

Mercedes SpeedShift MCT

Hộp số robot hóa ly hợp đơn. Cấu tạo y như hộp số 7G-Tronic nhưng sử dụng ly hợp điểu khiển tự động bằng robot thay vì bộ biến mô-men thủy lực.

Volkswagen / Audi : DSG/S-Tronic

Đơn giản là hộp số robot hóa ly hợp kép nổi tiếng nhất thị trường. Chuyển số cực nhanh, tiêu hao nhiên liệu tối ưu và ít khi bị lỗi. Còn hộp số S-Tronic thực ra là 1 DSG chỉ thay đổi tên gọi thương mại.

BMW DKG

Hộp số robot hóa ly hợp kép, ít được biết đến hơn người anh em DSG/S-tronic.

BMW Steptronic 

Hộp số được sử dụng trên phần lớn các dòng xe của BMW. Hoạt động dựa trên nguyên lý bộ biến mô-men thủy lực.

Volkswagen ASG

Hộp số robot hóa ly hợp đơn. Giải pháp cho các dòng xe rẻ của Volkswagen.

Audi S-tronic

Thực chất là hộp số DSG của Volkswagen, chỉ thay đổi tên thương mại.

Volkswagen/Audi : Tiptronic

Hộp số tự động truyền thống sử dụng bộ biến mô-men thủy lực. Có thể coi hộp số này là điển hình của công nghệ truyền thống, hoạt động êm ái, tuy cũng hơi tốn nhiên liệu và tốc độ chuyển số chưa được nhanh lắm.

Audi Multitronic / CVT

Multitronic của Audi là kiểu hộp số CVT. Cũng như các hộp số CVT trên các dòng xe Nhật, động cơ rất ồn và cho cảm giác không đủ lực đẩy khi bạn nhấn mạnh chân ga. Chỉ phù hợp di chuyển trong thành thị.

Toyota MMT và X-shift 

Hộp số robot hóa ly hợp đơn nhưng hiệu suất và độ êm ái thì còn rất hạn chế.

Toyota Multidrive 

Hộp số biến thiên liên tục CVT. Cực kì "mềm mại" cho những ai thích lái xe từ tốn. 

Khi sang số, chỉ cần dùng tay bóp lẫy cố định trên cần số sao cho lẫy thụt vào là có thể di chuyển cần số đến vị trí mong muốn. 

Về cơ bản, số tự động sẽ có ký hiệu sau:

- P (Parking) = đậu xe

- R (Reverse) = lùi xe

- N (Neutral) = trạng thái tự do

- D (Drive) = số tiến

Tùy thuộc vào dòng xe sẽ có thêm các ký hiệu và chức năng khác như:

- M (Manual): (+ -) Vận hành như số sàn, cho phép xe chuyển sang số 1, 2, 3, 4, 5 và ngược lại (gạt về dấu “+” là tăng số, dấu “-“ là giảm số)

- S (Sport): Số kiểu thể thao, gần giống như chế độ M kể trên để chuyển số theo ý muốn người lái.

- D1 (Drive 1), D2 (Drive 2): Sử dụng khi cần đi tốc độ chậm, đường khó đi hoặc tăng tốc. Tuy nhiên công dụng rất quan trọng của những số này là hỗ trợ đổ đèo an toàn.

- OD (Overdrive): Số để vượt tốc, đổ đèo

- L (Low): Số thấp, dùng cho các trường hợp tải nặng, lên dốc, xuống dốc

- B (Brake): Số hãm, tương tự như số L. Dùng để hãm tốc bằng động cơ khi xe xuống dốc.


Bạn có chắc chắn rằng bạn sẽ không lựa chọn hộp số sàn MT ?

Doanh số xe hộp số sàn MT đã giảm xuống còn khoảng 5% bởi không hề dễ dàng để nhớ được hết hướng dẫn sử dụng của hộp số này.

Hộp số vô cấp CVT và hộp số ly hợp kép DCT tiết kiệm nhiên liệu hơn hộp số sàn MT. Tuy nhiên, nếu hộp số sàn MT được sử dụng đúng cách vẫn là sự lựa chọn hợp lý bởi chi phí thấp khi sử dụng trong thời gian dài.

Phiên bản hộp số sàn MT ở những mẫu xe chủ đạo từ dòng sedan đến những chiếc crossover tiếp tục giảm mạnh thậm chí là biến mất khỏi thị trường ôtô là một điều đáng ghi nhận về xu thế sử dụng các loại hộp số tự động của thị trường ôtô. Trong khi đó, không có nghi ngờ gì về việc hộp số vô cấp CVT thông minh sẽ xuất hiện ngày càng nhiều trong các mẫu xe mới sắp tới bởi những ưu điểm vượt trội về giá thành sản xuât , tiêu hao nhiên liệu, sự êm ái khi vận hành ...

Hệ số cản gió

 Theo lý thuyết thì khi di chuyển, xe ôtô chịu sự tác động của nhiều loại lực như

+) Lực cản lăn liên quan đến chất lượng mặt đường, chất lượng săm lốp. 

+) Lực quán tính liên quan đến khối lượng và gia tốc của xe. 

+) Lực ma sát liên quan đến vật liệu, công nghệ chế tạo và dầu mỡ bôi trơn. 

+) Lực cản của gió lại liên quan đến hình dạng khí động học và tốc độ của xe.

Hiệu quả khí động học của một chiếc xe được xác định bởi hệ số cản gió (Cd) của xe được chia làm 3 sự ảnh hưởng như sau:

1Lực nâng (Lift force)

Theo lý thuyết của khí động học: khi xe chuyển động, luồng không khí phía trên mui xe phải di chuyển một quãng đường dài hơn so với luồn không khí phía dưới gầm xe. 

Theo nguyên lý Bernoulli thì phía trước hơn phía sau. Vận tốc khác nhau của các dòng không khí dẫn tới sự chênh lệch, tạo nên lực nâng có phương vuông góc với bề mặt đường. Sẽ làm giảm sức bám đường của xe.

2Lực cản (Drag force)

Đây là thành phần có phương song song với bề mặt di chuyển. Là lực cản không khí. 

Đây được coi là thành phần chính của khí động học bởi khi di chuyển theo phương này sẽ dẫn đến vận tốc tuyệt đối giữa dòng khí và xe là lớn nhất.

3Lực hông (Side force)

Được sinh ra do các dòng khí tác dụng vào bên hông của xe, thường có lực nhỏ nhất.

Trong, ngành công nghiệp chế tạo và sản xuất xe ôtô đều chú ý đến khí động học

Đặc biệt đối với xe đua thì Khí động học càng quan trọng vì giúp cho chiếc xe đua phá vỡ các giới hạn về tốc độ thông thường.

Lực cản khí động được xác định theo công thức:  Fx=1/2 (A.Cx.r.V 2) 

Như vậy, giảm Cx đồng nghĩa với việc cải thiện hình dạng khí động học của xe ôtô. 

Trong giai đoạn trước năm 1930 những chiếc xe ôtô có hệ số cản (trên hình kí hiệu là CW) rất lớn (0,65÷1,0). 

Sau đó, vào những năm 1970, hệ số cản giảm xuống gần giá trị 0,4.

Và ngày nay hệ số cản chỉ còn là 0,28÷0,32 và có một số loại xe đã có thể đạt được 0,25÷0,27. 

Sau năm 2000, khi những chiếc xe ôtô gần như đã hoàn thiện về dạng khí động học thì việc giảm dù chỉ 0,01 trong Cx ngày càng trở nên khó khăn. Vì vậy, đồ thị mô tả Cx theo thời gian gần như nằm ngang.

Hệ số khí động học thấp nhất là đối với vật thể có dạng hình giọt nước có Hệ số cản gió Cd 0.05. Còn hệ số cản gió lớn nhất (theo lý thuyết) là một mặt cầu kim loại có Cd bằng 1.0. Nhưng nếu tính đến hiệu ứng nhiễu loạn của không khí phía sau đuôi xe thì Cd có giá trị xấp xỉ 1.2.

Những chiếc xe hiện đại thường có hệ số cản Cd vào khoảng 0.30. 

Để cải thiện khí động học thì các nhà thiết kế xe ôtô thường áp dụng: 

+) Cánh ép gió wing ở đuôi xe: Nhiều hãng xe thể thao và xe đua được trang bị thêm bộ phận cánh gió phía sau đuôi xe. Nhiều người cho rằng nó chỉ để trang trí. Nhưng không ai biết rằng nó là bộ phận giúp giảm đi lực nâng từ phía mặt đường. Giúp chiếc xe có thể hoạt động một cách ổn định.

+) Cánh lướt gió spoiler ở phía trước: Nhiệm vụ của bộ phận này giúp chia cánh gió phía trước và làm biến đổi luồng gió dưới gầm làm giảm bớt lực nâng của xe khi bắt đầu di chuyển.

+) Lỗ thông khí: Nhờ có lỗ thông khí mà luồng không khí tiếp cận với xe sẽ được đi qua 2 bên cạnh của xe. Nó giúp làm cản lực cản của khí động học.

+) Gầm xe trơn: Nhà sản xuất khi thiết kế thường để gầm xe trơn khi chiếc xe có khí động học. Với mục đích là làm giảm bớt các phần lực cản do hệ thống truyền động như vị sai, hộp số,… gây ra. Nó còn giúp tăng vận tốc khí khi đi qua gầm xe. từ đó làm giảm lực nâng.

+) Lốp xe: được thiết kế như một đường hầm để giúp quá trình khí động học di chuyển nhanh hơn. Giúp xe có thể bám đường tốt hơn.

Sự nhầm lẫn giữa cánh gió spoile (lướt gió) và wing (ép gió)

Vào đầu những năm 1960, các kỹ sư của Ferrari đã khám phá ra rằng, bằng cách gắn thêm một tấm cản (wing) vào đuôi phía sau, lực nâng có thể giảm đáng kể hoặc thậm chí phát sinh lực nén, trong khi lực cản chỉ tăng một lượng rất nhỏ. 

Nếu tăng góc độ của cánh ép gió wing thì có thể làm tăng lực nén thậm chí lên đến 100kg. 

Cánh ép gió wing có tác dụng tận dụng dòng không khí để tạo lực ép chiếc xe xuống mặt đường. Wing (cánh ép gió) có thiết kế như một cánh máy bay bị đảo ngược, tách khỏi bề mặt của xe giúp không khí lưu thông trên và dưới cánh với tốc độ khác nhau, tạo ra áp suất khác nhau và từ đó sinh ra lực ép xuống cánh gió (downforce). Lực ép này giúp xe bám chặt vào mặt đường, nhưng đồng thời có thể khiến mất đi khoảng 15% tốc độ tối đa. 

Wing dùng cho xe thể thao hiệu suất cao, xe đua đặc biệt cần thiết khi vào cua ở tốc độ cao. Lúc này, xe cần phải bám đường để tránh mất cân bằng, gây ra tình trạng văng đuôi (oversteer) hoặc bị đẩy ngang ra ngoài (understeer).

Thông thường lực ép xuống lên tới hàng nghìn kg trên xe F1. Tay đua Romain Grosjean từng tuyên bố chiếc xe của anh nặng 738 kg nhưng tạo ra lực ép lên tới 5.904 kg tại mùa giải Suzuka vào năm 2018.

Ở trên các mẫu xe đường trường, McLaren Senna là mẫu xe có lực xuống cao nhất hiện nay lên tới 800 kg ở tốc độ 225 km/h nhờ vào cánh gió sau cố định cỡ lớn. Vị trí thứ hai là của chiếc Mercedes-AMG Project One với lực ép 675 kg thông qua cánh gió chủ động.

Mục tiêu của xe thể thao là giảm trọng lượng nhiều nhất có thể nên rất cần sử dụng wing để tăng lực bám đường khi vào cua ở tốc độ cao.

Cánh lướt gió spoiler có tác dụng lướt gió, tức là hướng luồng không khí trườn xuống đuôi xe phải đi lên phía trên và đẩy ra xa đuôi xe, tránh nhiễu loạn không khí ở đuôi xe. Vì vậy, spoiler thường gắn dính liền vào đuôi xe, không có khoảng hở, để giảm lực cản (Drag Force) và tăng hiệu quả trong việc dẫn không khí ở lực nâng (Lift Force) và lực hông (Side Force). Spoiler thường có hình dạng nhỏ, gắn trực tiếp mép đuôi xe, cốp hoặc cửa kính phía sau. Nhìn tổng thể, spoiler không tách rời với thân xe. Spoiler chỉ phát huy tác dụng khi xe chạy ở tốc độ cao, vì ở tốc độ thấp lực cản nhỏ, bộ phận này không phát huy tác dụng. 

Xe thể thao với thiết kế hình giọt nước là loại xe phù hợp để gắn spoiler. Chi tiết này sẽ không hiệu quả khi gắn trên các xe SUV, có thiết kế hình hộp như Mercedes G-Class, Ford Bronco, Land Rover Defender, vì hệ số cản gió của những xe này rất lớn, hiệu quả khí động học thấp. Chúng không được sinh ra để chạy tốc độ cao.

Cánh lướt gió trước (Front Spoiler hay Air dam), thường gắn ở mép cản trước, với nhiệm vụ kiểm soát động lực liên quan đến không khí phía trước xe. Điều này có thể giảm hệ số cản và lực nâng ở thân xe. Thậm chí trọng tâm chuyển hướng luồng khí vào khoang động cơ nhằm mục đích làm mát hay tản nhiệt phanh trước.

Một số mẫu xe sử dụng cả hai, tạo ra cụm cánh gió

Nếu như wing đặt cố định ở sau đuôi xe, thì spoiler có thể là bất kỳ phần nào của thân xe với mục đích loại bỏ luồng không khí không mong muốn.

Các vùng không khí xoáy trên vỏ xe ôtô 

Khi xe ôtô chuyển động trong môi trường không khí, sự tương tác giữa không khí bên ngoài môi trường với cấu trúc của vỏ xe tạo thành những vùng không khí xoáy có áp suất thấp.

Vùng không khí xoáy lớn nhất là ở đuôi xe, thì có rất nhiều vùng không khí xoáy nhỏ trên nắp vỏ xe sẽ tạo ra lực cản không khí. Lực cản này khiến xe chạy chậm hơn, tiêu hao nhiên liệu nhiều hơn và xe vận hành thiếu cân bằng hơn.

Muốn giảm tối đa các lực không khí động này thì phải tìm cách loại bỏ hoặc giảm kích thước của các vùng không khí xoáy.

Các vùng không khí xoáy hình thành ở những nơi vỏ xe bị gấp khúc, tạo nên sự đổi hướng đột ngột của dòng chảy không khí

Vùng thứ nhất trên hình là phần mũi xe với dòng không khí xoáy ngay trên nắp đậy khoang động cơ (capo), đồng thời dòng không khí đi qua két làm mát cũng sinh ra lực cản nhất định. 

Các vùng xoáy khác như khu vực chân kính chắn gió, góc chữ A, bánh xe,... 

Vùng không khí xoáy ở đuôi xe phụ thuộc chủ yếu vào kết cấu và kích thước của phần đuôi xe ôtô. Nếu thiết kế đuôi xe thuôn dài về phía sau thì sẽ giảm được kích thước vùng xoáy này, nghĩa là giảm đáng kể lực cản không khí tác động.